Với bề dày lịch sử 4.000 năm, văn minh nông nghiệp Việt Nam xứng đáng và cần phải có một bảo tàng riêng để phản ánh toàn diện các giống lúa và cây trồng từ xưa đến nay.
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, là một trong những nơi có nghề nông sớm nhất thế giới. Dấu tích của nghề trồng trọt đã được tìm thấy trong các di tích thuộc Văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 10.000 năm. Từ thời kỳ ấy, cư dân đã biết thuần hóa rồi tiến tới trồng các loại cây có củ và một số loại thực vật như bầu, bí.
Đông Nam Á cũng là nơi có giống lúa hoang Oryza Sativa sau này được thuần hóa và trồng trọt ở đây. Từ khoảng 4.000 năm cách ngày nay, vùng trung du và đồng bằng sông Hồng trở thành địa bàn chính của nghề trồng lúa. Từ đó, nông nghiệp lúa nước trở thành ngành kinh tế chủ đạo, góp phần quan trọng cho việc hình thành và phát triển nền văn minh nông nghiệp của người Việt.
Việc đặt ra vấn đề thành lập Bảo tàng Nông nghiệp Việt Nam là vô cùng cần thiết bởi có ý nghĩa quan trọng. Với bề dày lịch sử 4.000 năm, văn minh nông nghiệp Việt Nam xứng đáng và cần phải có một bảo tàng riêng để phản ánh toàn diện các giống lúa và cây trồng từ xưa đến nay, các phương thức trồng lúa ở các vùng miền trên đất nước, từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long và dọc dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung, từ miền núi, trung du phía Bắc đến Tây Nguyên. Mỗi vùng tùy theo điều kiện tự nhiên có những phương thức canh tác truyền thống khác nhau.
Trong quá trình người Việt đi về phía Nam đã sáng tạo những phương thức canh tác mới, trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm cư dân tại chỗ và kỹ thuật mang theo từ quê hương bản quán. Từ những phương thức canh tác khác nhau sẽ có những phức hệ kỹ thuật khác nhau: các loại nông cụ, cách thức sử dụng nông cụ, những kỹ thuật hỗ trợ như giống, thủy lợi, phân bón của nghề trồng lúa hay các cây trồng khác…
Ngoài trồng lúa, Việt Nam còn là xứ sở của nhiều cây trồng khác nữa, vì vậy cũng cần được thể hiện trong Bảo tàng Nông nghiệp Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX, nước ta còn có nghề trồng các cây công nghiệp do người Pháp du nhập vào như cao su, cà phê và từ nửa sau thế kỷ XX, phát triển các trang trại trồng cây ăn trái. Ở Nam Bộ, “văn minh miệt vườn” xuất hiện sớm, sản phẩm trồng trọt trở thành hàng hóa lưu thông rộng rãi trong nước, thậm chí ra nước ngoài chứ không chỉ mang tính chất tự cung tự cấp như trước nữa.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có kế hoạch xây dựng Bảo tàng Nông nghiệp Việt Nam và Bảo tàng Cây lúa nước (mặt bằng, đề cương trưng bày, phòng trưng bày, các bộ sưu tập, mẫu vật…). Nhưng theo tôi, không nên gọi là Bảo tàng Cây lúa nước mà nên đặt tên là Bảo tàng Lúa gạo Việt Nam, một phần có thể được xây dựng và trưng bày trước khi Bảo tàng Nông nghiệp Việt Nam được xây dựng.
Ý tưởng xây dựng Bảo tàng Lúa gạo Việt Nam là một bảo tàng trưng bày riêng về lúa gạo và những thực phẩm từ lúa gạo như cơm, xôi (nấu trong nồi, nướng trong ống tre, đồ), các loại bánh, bún, phở, rượu… Gạo, nếp chế biến được rất nhiều món ăn, vì vậy cách thức chế biến, vật dụng chế biến cũng vô cùng phong phú, đa dạng theo vùng miền và theo thời gian. Có nhiều loại thức ăn trước đây chỉ dành cho những dịp đặc biệt nay phổ biến hằng ngày, nhưng cũng có nhiều món ăn cổ truyền đang có nguy cơ biến mất trong xã hội công nghiệp, do đó giá trị văn hóa phi vật thể như kỹ thuật chế biến, ý nghĩa của nó cũng mai một, thậm chí biến dạng…
Liên quan đến lúa gạo là công cụ chế biến lúa gạo và các nghề thủ công như nghề làm cốm, bún, phở, bánh hỏi, các loại bánh… Rồi cách ăn các loại bánh (ví dụ cách làm bánh xèo miền Trung và Nam Bộ khác nhau thế nào, những loại rau ăn kèm, các loại nước chấm, những “biến thể” của bánh xèo là bánh khọt, bánh khoái chẳng hạn). Hay về cách làm bánh chưng, bánh tét cũng đã là một nội dung vô cùng hấp dẫn của bảo tàng này. Đặc biệt là bao bì của các loại bánh đều từ các loại lá cây – bao bì thân thiện với môi trường.
Nói đến lúa gạo là nói đến văn hóa ẩm thực Việt Nam, do đó có thể trưng bày các loại đồ gốm dùng trong nấu nướng, ăn uống, hoặc các vật dụng chế biến bằng các chất liệu khác nhau từ truyền thống đến hiện đại. Rồi “cơ cấu” bữa ăn hằng ngày, bữa ăn có tính chất nghi lễ (đám giỗ, đám cưới, lễ hội). Các nghi lễ, lễ hội đều có liên quan mật thiết với văn hóa ẩm thực.
Tại Seoul (Hàn Quốc) có một bảo tàng tư nhân, nhỏ thôi, trưng bày sản phẩm từ rơm rạ: các loại dép, áo, đồ chơi của trẻ em, những vật dụng khác, thu hút khá nhiều khách tham quan. Nhiều du khách đến xem đã mua sản phẩm lưu niệm bán tại bảo tàng.
Bảo tàng về món kim chi nổi tiếng cũng vậy, trưng bày quy trình trồng các loại rau, cách thu hoạch, cách làm các loại kim chi, cách chế biến món ăn từ kim chi, các loại đồ gốm liên quan đến kim chi. Tại đó còn có nhà hàng cho du khách thưởng thức các loại kim chi. Trong các bảo tàng đồng thời chiếu phim về cách thức làm ra và sử dụng những sản phẩm ấy. Đó là một cách giới thiệu, quảng bá về văn hóa Hàn Quốc rất hiệu quả.
Ở Việt Nam có thể thành lập nhiều bảo tàng chuyên vào một chủ đề nhất định. Những doanh nghiệp lớn, nếu làm bảo tàng về ngành nghề của mình thì sẽ tạo dựng được thương hiệu về văn hóa. Ví dụ bảo tàng cà phê, bảo tàng gốm sứ, hay bảo tàng về một (hoặc nhiều) món ăn nổi tiếng của Việt Nam.
Ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực phục vụ du lịch, khi bán những đặc sản là nông sản đều kết hợp trưng bày về cách sản xuất, chế biến các loại sản phẩm. Điều ấy góp phần tạo được sự tin tưởng cho khách đến tham quan và mua sản phẩm, cũng đồng nghĩa với việc gìn giữ thương hiệu (chất lượng hàng hóa, thái độ phục vụ, chế độ hậu mãi).
Luật Di sản văn hóa đã quy định về loại hình bảo tàng tư nhân và điều kiện thành lập, tuy nhiên từ khi có luật này đến nay đã hơn 20 năm vẫn chỉ phổ biến việc trưng bày các sưu tập cổ vật tư nhân. Nếu doanh nghiệp chú ý đến việc “lập bảo tàng” cho sản phẩm của mình thì sẽ có nhiều lợi ích như tăng cường quảng bá thương hiệu, lưu giữ lịch sử ngành nghề và tôn vinh vai trò doanh nhân; tăng giá trị văn hóa của sản phẩm, góp phần tích cực bảo tồn và quảng bá văn hóa Việt Nam, đồng thời làm cho bảo tàng phong phú hơn, “văn hóa bảo tàng” trở nên quen thuộc và phổ biến hơn trong đời sống xã hội.
(*) Tác giả là Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử TP.HCM,
nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM
https://doanhnhansaigon.vn/di-nghi-viet/nghi-ve-bao-tang-lua-gao-viet-nam-1111633.html