Giá gạo biến động mạnh, nông dân vui mừng, doanh nghiệp lo lắng

Chi phí leo thang trong khi giá gạo xuất khẩu giảm mạnh, doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thua lỗ những tháng cuối năm.

Trong bối cảnh giá nguyên liệu leo thang và chi phí vận tải tăng cao, ngành xuất khẩu gạo Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Mặc dù giá lúa tại ruộng hiện tăng vọt, giá gạo xuất khẩu lại liên tục lao dốc, gây ra nguy cơ thua lỗ cho các doanh nghiệp trong những tháng cuối năm.

Theo khảo sát từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá lúa tại ruộng hiện đã đạt mức 7.450 đồng/kg, tăng gần 300 đồng so với tháng 7. Giá lúa thường tại kho cũng đã chạm mức 9.200 đồng/kg, tăng thêm 500 đồng. Chị Hồng, một nông dân trồng lúa ở Đồng Tháp, cho biết, sau thời gian giá lúa giảm, hiện nay đã có xu hướng tăng trở lại. Tuy nhiên, nguồn cung không còn dồi dào như trước, dẫn đến giá bán lúa của chị hiện đạt từ 8.000-8.400 đồng/kg, tăng 500-800 đồng so với tháng trước.

Mặc dù đây là tin vui đối với người nông dân, các doanh nghiệp xuất khẩu lại đang phải đối mặt với áp lực lớn. Bà Huỳnh Thị Bích Huyền, Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu Ngọc Quang Phát, cho biết, việc giá lúa tăng chủ yếu do nguồn cung vụ hè thu giảm sút, cộng với ảnh hưởng của mưa bão từ tháng 8, làm giảm chất lượng lúa. Các nhà nhập khẩu có nhu cầu nhưng lại ép giá, chỉ chốt hợp đồng với mức giá thấp, khiến các doanh nghiệp phải mua bán cầm chừng.

Ông Đinh Ngọc Tâm, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Cỏ May, chia sẻ, vụ hè thu năm nay bị ảnh hưởng bởi thời tiết bất lợi. Một số vùng chưa kịp thu hoạch đã bị mưa bão làm giảm sản lượng, đẩy giá lúa tại ruộng lên cao. Lúa OM 18 được bán ở mức 8.500-8.700 đồng/kg, trong khi giá thành sau khi tách vỏ đã vượt 13.000 đồng/kg. Tuy nhiên, các thị trường nhập khẩu lớn chỉ chào mua với giá hơn 13.000 đồng/kg, khiến doanh nghiệp xuất khẩu có nguy cơ thua lỗ nếu hàng tồn kho thấp và phải mua gom với giá cao.

Ngoài áp lực về giá, các doanh nghiệp xuất khẩu còn đối mặt với chi phí vận tải tăng cao do xung đột quốc tế và biến động tỷ giá. Ông Thuận, đại diện một công ty xuất khẩu, cho biết việc duy trì xuất khẩu trong bối cảnh chi phí đầu vào tăng 10-15% so với đầu năm đang là thách thức lớn. Trong khi đó, việc yêu cầu đối tác tăng giá trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, bởi người tiêu dùng có thể chuyển sang sản phẩm thay thế.

Gần đây, doanh nghiệp Việt bị cáo buộc liên quan đến “thổi phồng giá gạo” khi xuất khẩu sang Indonesia. Cơ quan Hậu cần Quốc gia Indonesia và Cơ quan Lương thực Quốc gia đang bị điều tra về cáo buộc tham nhũng liên quan đến việc nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến việc Indonesia tạm ngừng mua gạo từ Việt Nam, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung và doanh số xuất khẩu.

Dù thị trường còn nhiều rủi ro, các tổ chức và doanh nghiệp xuất khẩu vẫn kỳ vọng vào sự tăng trưởng giá gạo trong thời gian tới. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, lượng hàng tồn kho tại nhiều quốc gia đang ở mức thấp do ảnh hưởng của El Nino. Bên cạnh đó, nguồn cung từ các nước nhiệt đới như Việt Nam, Campuchia, Thái Lan trong nửa cuối năm cũng giảm do mưa bão. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) dự báo, tỷ lệ các quốc gia không đảm bảo an ninh lương thực đã chiếm tới 30,4% dân số thế giới, với gần 30 quốc gia thực hiện hạn chế hoặc tạm dừng xuất khẩu lương thực để bảo vệ nguồn cung nội địa. Do đó, giá gạo trong nửa cuối năm có thể tăng trở lại.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) khuyến nghị, các doanh nghiệp cần linh hoạt điều chỉnh chiến lược sản xuất và kinh doanh. Họ cần sẵn sàng ứng phó với biến động để đảm bảo hiệu quả và an toàn trong xuất khẩu, đồng thời tránh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như bán phá giá, nhằm bảo vệ và duy trì sự ổn định của ngành xuất khẩu gạo quốc gia.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích gieo cấy lúa trong 7 tháng đầu năm 2024 đạt 6,25 triệu ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích lúa thu hoạch ước đạt 3,82 triệu ha, với sản lượng khoảng 25 triệu tấn, tăng 2%. Dự kiến, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 7,4 triệu tấn gạo trong năm 2024, giảm 9% so với năm 2023. Trong 7 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu 5,18 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 3,27 tỷ USD, tăng 25,1% về lượng và 5,8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

https://congthuong.vn/gia-gao-bien-dong-manh-nong-dan-vui-mung-doanh-nghiep-lo-lang-338326.html

Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Đoàn Xúc tiến thương mại Quốc gia tại Philippines
Đoàn Xúc tiến thương mại Quốc gia tại Philippines
Đoàn Xúc tiến thương mại Quốc gia tại Philippines
Đoàn Xúc tiến thương mại Quốc gia tại Philippines
Đoàn Xúc tiến thương mại Quốc gia tại Philippines
Previous
Next

Từ ngày 01/08/2024-08/08/2024
(đồng/kg)

Loại Hàng Giá cao nhất Giá BQ +/- tuần trước
Lúa thường tại ruộng       7.800        7.482  +239 
Lúa thường tại kho       9.600        9.117  +254 
Lứt loại 1     12.350      12.058  +375 
Xát trắng loại 1      14.750      14.240  +470 
5% tấm     14.150      13.914  +121 
15% tấm     13.950      13.650  +158 
25% tấm     13.750      13.300  +142 
Tấm 1/2     10.950        9.879  +264 
Cám xát/lau       7.350        7.171               –  

Tỷ giá

Ngày 09/08/2024
Mã NT Tên NT Units per USD
CNY Chinese Yuan Renminbi 7,17
EUR Euro 0,92
IDR Indonesian Rupiah 15940,37
MYR Malaysian Ringgit 4,42
PHP Philippine Peso 57,28
KRW South Korean Won 1364,27
JPY Japanese Yen 146,49
INR Indian Rupee 83,95
MMK Burmese Kyat 2097,03
PKR Pakistani Rupee 278,66
THB Thai Baht 35,25
VND Vietnamese Dong 25289,27