‘Lúa vàng, ruộng bạc’ từ mô hình tôm – lúa

Với tiềm năng còn rất lớn, hình thức canh tác lúa – tôm ở ĐBSCL mang về thu nhập cao gấp 3 – 4 lần so với trồng thuần lúa 3 vụ/năm.

Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền kết hợp 8 tỉnh ven biển ở ĐBSCL cùng các nhà khoa học và nông dân, doanh nghiệp vừa tổ chức hội thảo khoa học trực tuyến về giải pháp canh tác lúa tôm hiệu quả ở ĐBSCL.

Sản xuất lúa – tôm yên tâm đầu ra

Mô hình canh tác lúa – tôm chủ yếu tập trung ở các tỉnh ven biển như Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau và Bến Tre… đang cho hiệu quả kinh tế cao. Trước đây, bà con nông dân coi việc trồng lúa – tôm là thu nhập phụ nên chỉ xuống giống và chờ thu hoạch.

Nông dân ven biển ĐBSCL đang vào vụ xuống giống lúa – tôm 2021. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Nhưng vài năm trở lại đây, bà con chuyển đổi trồng lúa ngắn ngày và các giống lúa có chất lượng gạo ngon như ST24, ST25, RVT, Jasmine… Năng suất lúa ở mô hình lúa – tôm trước đây từ 3 – 4 tấn/ha/vụ, nay đã tăng lên 5 – 5,5 tấn/ha/vụ, tăng thêm thu nhập đáng kể cho nông dân. Tính ra một vụ ở mô hình lúa – tôm, có thể mang về lợi nhuận từ 30 – 50 triệu đồng/ha/vụ (tính riêng lúa).

Ngoài ra, trong vụ tôm (luân canh), hoặc tôm xen canh trong ruộng lúa cũng mang về cho bà con từ 50 – 100 triệu đồng/ha (riêng tôm). Như vậy, tổng thu nhập trên 1ha lúa – tôm hiện nay khoảng 100 – 130 triệu đồng/ha/năm, cao gấp 3 – 4 lần so với trồng lúa chuyên canh 3 vụ/năm.

PGS.TS Mai Thành Phụng, nguyên Trưởng Bộ phận thường trực Nam bộ  (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia) cho biết: Với diện tích canh tác lúa – tôm hàng năm ở ĐBSCL trên 220.000 ha, tới đây đang dự kiến tăng lên 270.000 – 280.000 ha/năm.

Mùa vụ chính của lúa – tôm hàng năm bắt đầu từ tháng 6 – 7 tiến hành làm đất, rửa mặn và xuống giống từ tháng 8 đến tháng 11 là dứt điểm. Nhưng tùy theo tình hình mùa mưa đến trễ hay sớm mà lịch xuống giống được điều chỉnh ở từng nơi.

Hiện diện tích canh tác lúa – tôm hàng năm ở ĐBSCL trên 220.000 ha. Ảnh: Lê Hoàng Vũ

Năm nay, các địa phương dự kiến sẽ xuống giống sớm hơn và dứt điểm trong tháng 10. Những năm gần đây các vùng lúa – tôm đều được các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm nên bà con rất an tâm và phấn khởi để đầu tư chăm bón. 

Kiên Giang là một trong những tỉnh ven biển có diện tích lúa – tôm trên 102 ngàn ha được xem là lớn nhất ở ĐBSCL. Hàng năm, nông dân thu về hai nguồn lợi lúa và tôm, khoảng 4 – 4,5 tấn lúa/ha/vụ và 0,45 – 0,5 tấn tôm/ha/vụ, thu nhập từ 100 – 130 triệu đồng/ha/năm, đồng thời tạo ra môi trường sinh thái khá an toàn, bền vững cho sản xuất lúa – tôm.

Ông Lê Văn Dũng, Trưởng phòng Thông tin và Chuyển giao kỹ thuật (Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang) cho biết: Những năm gần đây, Kiên Giang đã chuyển đổi hàng chục ngàn ha đất lúa ven biển sang luân canh lúa – tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình này không chỉ thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng mà còn khai thác được lợi thế của tỉnh ven biển, với bờ biển dài hơn 200km. Ðiển hình cho việc chuyển đổi này là các huyện như An Minh, An Biên, Vĩnh Thuận và U Minh Thượng, biến vùng nông thôn khó khăn trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế qua mô hình lúa – tôm.

Sản xuất lúa – tôm những năm gần đây cho lợi nhuận từ 100 – 130 triệu đồng/ha/năm, đồng thời tạo ra môi trường sinh thái khá an toàn, bền vững. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Còn tại tỉnh Bạc Liêu, mô hình lúa – tôm đang được khuyến khích nhân rộng và thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ về Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng đầu tư cho Bạc Liêu phát triển và nhân rộng mô hình sản xuất lúa – tôm, với tổng kinh phí khoảng 4 tỷ đồng.

Riêng trong năm 2020, Bạc Liêu đã xây dựng 3 vùng sản xuất “tôm sạch”, lúa an toàn trên 150ha, sau khi có tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm sẽ làm cơ sở lan tỏa, nhân rộng cho những năm tiếp theo khoảng 1.200 ha.

Dự kiến đến năm 2025, diện tích lúa – tôm ở Bạc Liêu đạt 41.000 ha, riêng năng suất tôm đạt 0,5 tấn/ha/năm, sản lượng phấn đấu đạt 20.500 tấn. Đối với lúa, năng suất đạt 4,64 tấn/ha, sản lượng phấn đấu 190.240 tấn.

“Tôm sạch, lúa sạch” nhờ canh tác lúa – tôm

Về biện pháp quản lý đất, nước, dinh dưỡng trong canh tác lúa – tôm đạt hiệu quả cao ở ĐBSCL, GS.TS Nguyễn Bảo Vệ (nguyên Trưởng Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ) nhận định: Ưu điểm của mô hình canh tác lúa – tôm là không phải muốn xuống lúc nào cũng được, mà phải đợi khi mưa già, đến lúc đó mới bắt đầu xuống giống, gọi là thời điểm đuổi mặn để trồng lúa. Quy trình rượt và đuổi mặn xuất hiện trong mô hình lúa – tôm, bởi quy trình sống của cây lúa và con tôm là đối ngược nhau.

Đối với con tôm, cần nước mặn hoặc nước lợ, nên nông dân đưa nước mặn vào ruộng để nuôi tôm. Ngược lại, khi trồng lúa thì chờ nước mưa xuống hay lấy nước ngọt từ sông Mekong cho vào đồng ruộng để rửa mặn.

Quy trình rượt và đuổi mặn xuất hiện trong mô hình lúa – tôm, bởi vì quy trình sống của cây lúa và con tôm là đối ngược nhau. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Ưu điểm tiếp theo mà GS.TS Nguyễn Bảo Vệ đưa ra cho mô hình lúa – tôm là nhờ nước mặn ban đầu trong ruộng nuôi tôm trước khi xuống giống lúa đã làm giảm độ phèn chua trong đất, từ đó giúp lúa tăng năng suất so với chỉ trồng lúa mà không kết hợp nuôi tôm.

Ông Ngô Văn Đông, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền cho biết: Trước đây, bà con nông dân thường ít đầu tư nhiều về phân bón cho canh tác lúa – tôm, nhưng những năm gần đây mô hình này đang dần đem lại hiệu quả cao. Vì vậy nông dân đã bắt đầu chú trọng để thúc đẩy năng suất và chất lượng hạt gạo.

Năm 2020, Công ty đưa ra thị trường phân chuyên dùng Đầu Trâu Lúa – Tôm là một hướng đi rất phù hợp với xu thế, sản phẩm chuyên cho cây lúa – tôm đầu tiên nên được đại lý, bà con nông dân phản hồi rất tốt.

Các mô hình trình diễn Đầu Trâu Lúa – Tôm tại Kiên Giang kết hợp với Đầu Trâu Mặn Phèn bón lót đầu vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn đối với ruộng đối chứng gần 5 triệu đồng/ha. Vùng lúa – tôm hiện nay có bộ sản phẩm chuyên dùng rất phù hợp để canh tác lúa – tôm cùng đạt hiệu quả.

Phân chuyên dùng Đầu Trâu Lúa – Tôm là một hướng đi rất phù hợp với xu thế, sản phẩm chuyên cho cây lúa – tôm đầu tiên nên được đại lý, bà con nông dân phản hồi rất tốt. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) cho rằng: Sản xuất theo mô hình lúa – tôm ở ĐBSCL đang phát triển mạnh và đây là ngành hàng mang lại giá trị cao cho ngành nông nghiệp so với các loại hình canh tác khác.

Tuy nhiên Cục Trồng trọt khuyến cáo, việc canh tác lúa – tôm ở ĐBSCL trong thời gian tới còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nước, giống, thời tiết, chứng nhận sản phẩm để nâng cao chất lượng… vì mỗi vùng đất lúa – tôm của mỗi địa phương đều khác nhau.

Vì vậy để canh tác lúa – tôm hiệu quả, Bộ NN-PTNT đề nghị các địa phương và nông dân cần phải thuần thục quy trình canh tác, nhóm giống và tuân thủ thời vụ nghiêm ngặt… Từ đó tiến tới cơ giới hóa, chứng nhận sản phẩm để đạt giá trị cao hơn. Đặc biệt, cần xem lúa – tôm là mô hình phát triển trọng điểm để gia tăng lợi nhuận cho nông dân ĐBSCL.

“Định hướng trong thời gian tới cho việc canh tác lúa – tôm phát triển bền vững ở ĐBSCL cần có sự phối hợp giữa các bên như Cục Trồng trọt, Tổng cục Thủy sản và Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cùng các địa phương, HTX và doanh nghiệp để định hướng sản phẩm lúa – tôm sạch ngày một đi đúng hướng và vươn xa hơn nữa cho việc xuất khẩu”, ông Lê Thanh Tùng, Cục phó Cục Trồng trọt đề nghị.

(Nguồn Lê Hoàng Vũ, Theo Nongnghiep.vn)

https://nongnghiep.vn/lua-vang-ruong-bac-tu-mo-hinh-tom–lua-d303870.html

Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn giao dịch thương mại Gạo tại thị trường Philippines năm 2024
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Đoàn Xúc tiến thương mại năm 2023 tại Đặc khu hành chính Hồng Kông
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Cuộc thi Gạo Ngon Việt Nam lần III năm 2022
Previous
Next

Từ ngày 28/11/2024-05/12/2024
(đồng/kg)

Loại Hàng Giá cao nhất Giá BQ +/- tuần trước
Lúa thường tại ruộng       7.250        7.171  -86 
Lúa thường tại kho       9.650        8.883  -125 
Lứt loại 1     13.450      12.071  -338 
Xát trắng loại 1      15.450      14.960  +40 
5% tấm     13.050      12.914  -171 
15% tấm     12.750      12.600  -200 
25% tấm     12.500      12.225  -200 
Tấm 1/2       9.450        8.693  -43 
Cám xát/lau       5.950        5.786  -114 

Tỷ giá

Ngày 29/11/2024
Mã NT Tên NT Units per USD
CNY Chinese Yuan Renminbi 7,24
EUR Euro 0,95
IDR Indonesian Rupiah 15856,33
MYR Malaysian Ringgit 4,45
PHP Philippine Peso 58,64
KRW South Korean Won 1397,21
JPY Japanese Yen 150,41
INR Indian Rupee 84,58
MMK Burmese Kyat 2099,20
PKR Pakistani Rupee 277,92
THB Thai Baht 34,32
VND Vietnamese Dong 25341,82